DuyMinh Software
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Quy phạm kỹ thuật vận hành nhà máy điện và lưới điện

Go down

Quy phạm kỹ thuật vận hành nhà máy điện và lưới điện Empty Quy phạm kỹ thuật vận hành nhà máy điện và lưới điện

Bài gửi  duyminh Wed Jun 09, 2010 3:48 pm

Quy phạm kỹ thuật vận hành nhà máy điện và lưới điện LogoDMS

Quy phạm kỹ thuật vận hành nhà máy điện và lưới điện

Điều 613 : Khi vận hành máy biến áp ( MBA) và cuộn điện kháng không có dầu phải đảm bảo chắc chắn và lâu dài sự làm việc của chúng bằng cách :
- Giám sát nhiệt độ, chế độ phụ tải và mức điện áp;
- Giám sát nghiêm ngặt tiêu chuẩn về chất lượng dầu và đặc tính cách điện ;
- Bảo quản tốt các trang bị làm mát , điều chỉnh điện áp, bảo vệ dầu và các trang bị khác.
Giải thích: Các MBA được chế tạo với các tính toán đảm bảo làm việc lâu dài và ổn định trong thời gian 25-30 năm. Để bảo đảm trong suốt thời gian đó, MBA làm việc được an toàn và liên tục, cần phải quan sát tất cả mọi dữ liệu về phụ tải, các điều kiện điện áp và các chế độ làm mát. Không đảm bảo các điều đó có thể dẫn đến MBA phát nóng , làm các chất cách điện chóng lão hoá, và làm ngắn tuổi thọ của thiết bị.
Để bảo đảm an toàn vận hành, có rất nhiều tiêu chuẩn cần thiết phải tôn trọng trong suốt quá trình khai thác, thử nghiệm và sửa chữa.
Cần thiết trước hết phải duy trì được chất lượng cách điện cao của MBA , chất lượng của dầu và chất lượng của cảc các thiết bị lắp ráp kèm theo MBA. Chỉ có như vậy mới có thể bảo đảm được MBA vận hành an toàn và lâu dài.
Điều 614 : MBA ( cuộn điện kháng ) có trang bị bảo vệ rơ le hơi , phải đặt sao cho nắp máy có độ nghiêng cao về phần rơ le hơi ít nhất là 1,0 -1,5% , còn ống dẫn dầu từ MBA ( cuộn điện kháng ) đến bình dầu phụ phải có độ nghiêng ít nhất là 2-4% . Phần trống của ống phòng nổ phải nối với phần trống của bình dầu phụ . Khi cần thay màng nổ của ống phòng nổ phải thay bằng cái tương tự với cái của nhà chế tạo.
Giải thích: Tất cả các MBA dầu có công suất từ 630 kVA trở lên đều được trang bị bộ bảo vệ bằng rơ le hơi, bộ bảo vệ này hoạt động được nhờ ở một rơ le hơi tác động khi có dòng khí thoát ra. Khi có các sự cố bên trong hoặc các bộ phận bị quá nóng, thì các chất cách điện dắn và dầu cách điện sẽ làm toả các chất khí . Cường độ tạo khí phụ thuộc vào tính chất và quy mô của các hư hỏng. Những sự cố hư hỏng nhỏ bắt đầu bằng những phóng điện ở các phần cách điện, rồi lan dần và làm nóng lõi thép, dẫn đến tạo ra những bọt khí nhỏ. Cần bảo đảm cho các bọt khí này chuyển động theo hướng dẫn tới bình dãn nở và tạo điều kiện để cho rơ le hơi tác động nhanh.
Do đó phải cần có độ nghiêng của bình chứa dầu cách điện, và nghiêng về phía bình dãn nở.
Ở các MBA lớn, có bình chứa cao, để đảm bảo cho các bọt khí tập trung nhanh về bình dãn nở, thường có nhiều đường dẫn đến bình này theo dọc chiều cao của bình chứa. Để bảo đảm cho rơ le hơi luôn làm việc chính xác, thường phải đặt một van trên đường ống dẫn giữa rơ le và bình dãn nở. Để quan sát mức dầu trong bình dãn nở, phần ống thuỷ phải thông với khoảng trống phía trên lớp dầu trong bình dãn nở.
Đoạn ống đầu ra nối với bình dãn nở cũng có thể là nguyên nhân làm lọt khí ẩm vào trong dầu, do đó cần có một bộ phận sấy không khí , chống ngưng tụ độ ẩm trong bình. Khi sửa chữa bộ phận chống ẩm này, cần phải thay thế màng thuỷ tinh đúng với độ dầy như của nhà chế tạo. Không cho phép thay thế màng thuỷ tinh này bằng màng kim loại.
Điều 615 : Các bộ phận bố tri trên cao ( từ 3m trở lên ) của các MBA ( cuộn điện kháng ) đang làm việc, khi quan sát phải có thang đặc biệt lắp cố định và phải thực hiện đúng các quy định về kỹ thuật an toàn .
Giải thích: Kiểm tra trạng thái của các MBA trong vận hành, thông thường là trong trạng thái đang làm việc. Để phục vụ cho người công nhân vận hành không mất nhiều thời gian quan sát, cần có đầy đủ các phương tiện và đảm bảo an toàn khi quan sát mức dầu ở bình dãn nở, quan sát nhiệt độ của dầu, của rơ le hơi và của các bộ phận là mát khác.
Các việc quan sát này, tốt nhất là thực hiện trên mặt đất, và tất nhiên phải dùng các thiết bị quan sát bằng quang học như ống nhòm..
Còn để quan sát rơ le hơi, thì phải dùng thang bằng kim loại, lắp cố định. Thang phải có tay vịn và mặt bực thang phải bảo đảm cho người vận hành đứng được an toàn và đủ khoảng cách an toàn tới những phần mang điện. Quan sát MBA bằng thang và tiến hành thử nghiệm rơ le hơi phải thực hiện theo đúng quy định .
Cấm không cho phép sử dụng thang bằng tre, gỗ vào các công việc này./
Nguyễn Kim Xuyên (Biên soạn)
Điều 616 : Các trang bị phòng chống cháy đặt cố định, trang bị thu gom dầu dưới MBA ( cuộn điện kháng ) và các ông xả dầu từ đó ra phải được bảo quản trong trạng thái sẵn sàng làm việc.
Giải thích: Các MBA rất hiếm khi bị cháy, nhưng khi đã xẩy ra thì nguy hại rất lớn vì nó chứa một số lượng dầu lớn, đó là vật liệu rất dễ bốc cháy, mà khi bình chứa dầu bị vỡ, lượng dầu này sẽ nhanh chóng lan toản ra trên bề mặt rộng của trạm, sẽ làm ảnh hưởng tai hại đến nhiều thiết bị khác. Do đó các MBA công suất lớn đều phải trang bị các phương tiện chữa cháy cố định, phải hoạt động ngay tức khắc khi xẩy ra cháy. Trong vận hành cần thường xuyên kiểm tra sự hoạt động của hệ thống chữa cháy này theo quy trình tại chỗ và lịch trình quy định.
Máy biến áp bị cháy chủ yếu ở những điểm dẫn dầu vào bị hư hỏng, do có sự phóng điện bên trong, kèm theo với các ống dẫn bị vỡ, hoặc các bình chứa dầu bị nứt do các cách điện chính của các cuộn dây bị hỏng. Dầu sẽ bắt lửa do có các hồ quang vì các bộ bảo vệ cắt MBA đêu phải có một thời gian trễ , sau đó mới làm phát sinh ra hư hỏng ở đầu vào hay làm vỡ bình chứa và làm chảy dầu.
Các thiết bị van và bình thu hồi dầu ở các MBA dùng để tháo dầu phải đảm bảo rút được dầu thoát ra khỏi MBA bất cứ lúc nào và đảm bảo an toàn. Nhưng qua kinh nghiệm vận hành cho thấy rằng các thiết bị này hay bị kẹt do đất, cát và thường không hoạt động được khi có sự cố. Do đó cần thường xuyên làm vệ sinh theo chu kỳ để bảo đảm hiệu quả được tốt đẹp.
Gần vị trí đặt các MBA hay ngay bên trong trạm thường phải đặt các thùng chứa cát , các bình dập lửa và các phương tiện chữa cháy . Mọi vật dụng này phải được đặt ở các vị trí chính xác.
Ở các trạm đặt MBA cũng cần chú ý đến các vật liệu dầu cũ rơi vãi từ MBA hay từ các cuộn cáp hỏng . Cần phải lau sạch các vật liệu rơi vãi này để tránh hoả hoạn có thể lan truyền nhanh chóng qua chúng.
Điều 617 : Trên vỏ MBA ( cuộn điện kháng ) đặt ngoài trời phải ghi ký hiệu rõ ràng số liệu của nhà máy hoặc của trạm và tên gọi thống nhất theo quy định của điều độ. Cũng phải ghi những ký hiệu như vậy trên cánh cửa và ở bên trong các buồng, các ngăn máy biến áp.
Trên vỏ các MBA một pha phải được sơn mầu của pha tương ứng.
MBA ( cuộn điện kháng )đặt ngoài trời phải sơn mầu sáng bằng loại sơn không pha chất phụ gia kim loại , chịu được tác dụng của khí quyển và của dầu.
Điều 618 : Các động cơ điện của hệ thống làm mát MBA ( cuộn điện kháng ) thông thường phải được cấp điện từ hai nguồn. Đối với MBA ( cuộn điện kháng ) có dầu tuần hoàn cưỡng bức phải trang bị bộ tự động đóng nguồn dự phòng.
Giải thích: Đối với máy biến áp được làm mát bằng dầu tuần hoàn tự nhiên và các cánh toả nhiệt được thổi cưỡng bức thì hiệu xuất toả nhiệt hầu như tăng được gấp đôi, do đó cho phép có thể tăng phụ tải lên được 50-67%, thậm chí gấp đôi. Về mùa đông, khi cắt thổi gió, máy biến áp nói trên có thể làm việc với phụ tải định mức trong thời gian vài tiếng đồng hồ .
Với các máy biến áp với tuần hoàn dầu cưỡng bức qua các bin làm mát dầu bằng không khí hoặc bằng nước, thì hầu như toàn bộ nhiệt toả ra đều thoát qua các bộ làm mát này. Khi ngừng tuần hoàn dầu, ngừng thổi gió hay nước, lập tức nhiệt độ lớp mặt trên của dầu sẽ tăng cao, có thể đạt tới 40-45oC so với nhiệt độ của dầu ở các lớp dưới. Trong trường hợp này, khi máy biến áp mang phụ tải định mức trong thời gian mùa đông, nhiệt độ lớp mặt trên của dầu có thể đạt tới 110-120oC sau khoảng 1 giờ vận hành, đó là điều không cho phép do làm cuộn dây quá nóng và làm hư hỏng cách điện. Do đó với các máy biến áp có kiểu làm mát này, phải luôn đảm bảo cung cấp điện cho hệ thống quạt làm mát từ hai nguồn hoặc được đảm bảo bằng bơtj động đóng nguồn dự phòng. Sơ đồ cung cấp nguồn làm mát máy biến áp và thiết bị tự động đóng nguồn dự phòng phải luôn ở trạng thái sẵn sàng và cần thường xuyên kiểm tra.
Với các địa điểm có vận tốc gió lớn (cao hơn 15 m/giây), chỉ cần cho vận hành hệ thống làm mát với vận tốc gió 5-7 m/gy. Khi vận tốc gió cao hơn (12-15m/gy) có thể cho ngừng hệ thống làm mát vì gió đã đủ để đảm bảo làm mát rồi.

Điều 619: Bộ điều chỉnh điện áp dưới tải của máy biến áp phải thường xuyên trong tình trạng làm việc , thông thường bộ điều chỉnh này làm việc tự động. Phải kiểm tra sự làm việc của bộ điều chỉnh căn cứ vào trị số ghi trên bộ đếm số lần tác động.
Giải thích: Đồ thị phụ tải của máy biến áp trong ngày thường thay đổi trong phạm vi lớn, điều này dẫn đến điện áp trên thanh cái thay đổi nhiều và dẫn đến trị số sụt điện áp trên đường dây thay đổi. Do đó phần lớn máy biến áp điện áp 35 kV và cao hơn đều được trang bị bộ điều chỉnh điện áp dưới tải để khi phụ tải thay đổi có thể giữ được điện áp trên thanh cái ở trị số cần thiết. Nhờ bộ điều chỉnh điện áp dưới tải, số vòng dây làm việc của cuộn dây MBA sẽ thay đổi. Để đơn giản việc vận hành MBA và duy trì trị số điện áp cần thiết phụ thuộc vào chế độ làm việc, ở những trạm không có người vận hành, cần phải trang bị bộ tự động điều khiển .
Bộ điều chỉnh điện áp dưới tải phải ở trạng thái hoạt động kết hợp với bộ tự động điều khiển. Bộ điều chỉnh này cần phải được thường xuyên kiểm tra số lần thao tác để theo dõi phán đoán về tình trạng của bộ điều chỉnh. Khi bộ điều khiển tự động bị hỏng, cần đưa ra khỏi vận hành và đưa bộ điều chỉnh điện áp vào chế độ điều khiển từ xa.
Khi sơ đồ bộ điều khiển từ xa hệ thống điều chỉnh điện áp bị hư hỏng, cần đưa ngay toàn bộ ra khỏi chế độ vận hành. Không cho phép chuyển bộ điều chỉnh điện áp sang điều khiển bằng tay vì có thể gây hư hỏng cho bộ điều chỉnh.

Điều 620: Giải pháp thông gió của trạm biến áp phải bảo đảm cho máy làm việc với phụ tải định mức.
Khi lắp đặt máy biến áp có làm mát tự nhiên bằng dầu và không khí ở trong buồng kín , để đề phòng nhiệt độ máy biến áp quá nóng và lão hoá nhanh các lớp cách điện, cần thiết phải có thông gió liên tục đảm baoer thoát nhiệt được cho máy biến áp.
Khi vận hành cần quan sát xem hệ thống thông gió trong phòng đặt máy biến áp với tuần hoàn tự nhiên hoặc cưỡng bức có đảm bảo được hiệu số nhiệt độ giữa đầu vào ở phía dưới và đầu ra ở phía trên có không vượt quá 15oC ở phụ tải định mức không.
Trong trường hợp thay thế máy biến áp có công suất lớn hơn hay là máy biến áp làm việc quá tải một cách có hệ thống , cần phải kiểm tra xem hệ thống làm mát có đủ không, nếu cần thiết , phải áp dụng các biện pháp tăng cường làm mát.
Khi sử dụng các thiết bị tuần hoàn nhân tạo , để tránh cho máy biến áp bị quá nóng, cần phải có tín hiệu ở bảng điều khiển hoặc ở vị trí thích ứng báo hệ thống quạt thông gió không làm việc . Trong quá trình vận hành cũng cần quan sát vị trí nơi đặt máy biến áp, để bảo đảm không có tuyết, nước hoặc các sinh vật rơi vào đó.

Điều 621: Ở máy biến áp làm mát bằng không khí và dầu tuần hoàn cưỡng bức , và ở máy biến áp làm mát bằng nước và dầu tuần hoàn cưỡng bức , hệ thống làm mát phải được tự động đóng (cắt ) đồng thời với việc đóng (cắt) máy biến áp. Dầu phải được liên tục tuần hoàn cưỡng bức , không phụ thuộc mức mang tải.
Không được phép vận hành máy biến áp làm mát nhân tạo nếu không đồng thời đưa vào làm việc các bộ báo tín hiệu ngừng tuần hoàn dầu, ngừng tuần hoàn nước làm mát hoặc ngừng quạt gió.
Khi máy biến áp làm việc, có rất nhiều tổn thất năng lượng trong các mạch từ, trong thép do dòng điện xoáy , do tổn thất điện trở trên các cuộn dây. Những tổn thất này biến thành nhiệt lượng toả ra từ máy biến áp. Số nhiệt lượng này sẽ do dầu mang đi.
Ở các máy biến áp làm mát bằng dầu cưỡng bức và làm mát bằng không khí và nước, trong đó dầu được bơm tuần hoàn . Diện tích làm mát của các loại biến áp này chỉ làm thoát một lượng tổn thất nhỏ ( khoảng 5-7%) , còn phần lớn tổn thất toả ra theo hệ thống làm mát . Khi đó chế độ tăng nhiệt độ của các phần riêng biệt của máy biến áp không được vượt quá trị số giới hạn cho phép theo tiêu chuẩn. . Khi đóng máy biến áp mà không có làm mát hoặc khi cắt hệ thống lám mát ( như ngừng bơm dầu tuần hoàn, ngừng quạt bơm nước hoặc thổi gió ) , nhiệt độ lớp dầu phía trên sẽ tăng nhanh và làm nóng lên các bộ phận riêng biệt của máy biến áp , hệ quả là trong một thời gian ngắn ( khoảng 1 giờ với phụ tải định mức ) các phần tử riêng biệt cuả máy biến áp sẽ tăng nhiẹt độ quá mức cho phép và dẫn đến sự cố. Do đó sơ đồ điều khiển hệ thống làm mát máy biến áp với làm mát cưỡng bức bằng dầu phải dảm bảo tự động đóng hệ thống làm mát đồng thời với khi đóng máy biến áp vào lưới và cũng phải đảm bảo đóng nhóm làm mát phụ trợ thứ nhất khi đóng dưới 75% phụ tải định mức và đóng nhóm phụ trợ thứ hai khi vượt quá 75% phụ tải định mức. Với mục đích đề phòng sự phát nóng cục bộ ở các phần riêng rẽ của máy biến áp , hệ thống bơm dầu tuần hoàn phải làm việc liên tục không phụ thuộc vào chế độ phụ tải , vào nhiệt độ dầu họăc nhiệt độ không khí làm mát.
Vào mùa đông, nhiệt độ không khí hạ thấp, ở các máy biến áp với hệ thống làm mát bằng dầu với quạt gió, hoặc dầu với nước, trong chế độ phụ tải định mức , cho phép cắt quạt gió và ngừng bơm nước tuần hoàn nhưng phải bảo đảm bơm tuần hoàn dầu vẫn làm việc với điều kiện là nhiệt độ dầu lớp trên không vượt quá 45oC.

Download:
duyminh
duyminh

Tổng số bài gửi : 2887
Points : 5567
Reputation : 83
Join date : 12/09/2008
Age : 42
Đến từ : http://diendan.phamduyminh.com

http://www.phamduyminh.com

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết